Post Reply 
Thơ & Nhạc phổ cuả Nhà thơ Phạm Thiên Thư
Author Message
maritza Offline
Moderator
*****

Posts: 45,320
Joined: Aug 2010
Post: #1
Thơ & Nhạc phổ cuả Nhà thơ Phạm Thiên Thư
Nhà thơ Phạm Thiên Thư:

Người phá kỷ lục thơ lục bát của Nguyễn Du

(ANTĐ) - Giọng Bắc của tôi làm Nhà thơ Phạm Thiên Thư lắc đầu vì nghe
không hiểu. Ông là người nổi tiếng với bài thơ Động Hoa Vàng và Ngày Xưa
Hoàng Thị những năm cuối 60, đầu 70. Năm 2007 Trung tâm Sách và Kỷ lục
Việt Nam đã xác lập kỷ lục Người đầu tiên sáng tác Từ điển cười bằng
thơ. Vợ nhà thơ - bà Trần Như Báu đã trao cả tập tư liệu đã chuẩn bị sẵn
viết về ông cho tôi.

Những vần thơ đạo - đời mênh mang

Những tên tuổi như Thiền sư Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Khuông Việt, Không Lộ,
Mãn Giác... là những nhà thơ Phật giáo đã góp phần làm phong phú nền
văn học với những nét chấm phá độc đáo. Thế kỷ 20 cũng có một nhà thơ từ
cõi Phật đã viết lên những bài thơ tình cực hay. Sau khi được phổ nhạc
đã trở thành những tuyệt tác bất hủ - đó là Nhà thơ Phạm Thiên Thư.

Nơi ông hiện ở là quán cà phê Hoa Vàng (Cư xá Bắc Hải, Q. 10, Sài Gòn).
Người yêu thơ ông bảo là ông lấy tên Hoa Vàng từ bài thơ Động Hoa Vàng
nổi tiếng. Quán rất đông khách, bài trí đẹp và vàng rực màu mai vàng tứ
quý, chưa kể món kem gia truyền đưa từ Quảng Bình vào đủ mùi dâu, vani,
cà phê đượm thêm chút rượu.

Ở đây có một ông già miệng rộng, mũi lân, gương mặt tươi cười, nói
chuyện hồn nhiên, vui vẻ, hay xách túi đựng sách, thi thoảng còn thấy
ông ngồi trông xe… Ấy chính là nhà thơ Phạm Thiên Thư nổi danh. Tại quán
này, nếu muốn người yêu thơ sẽ được nghe lại nhạc phẩm Ngày Xưa Hoàng
Thị, Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng vấn vít nửa đời, nửa đạo, từng làm ngẩn
ngơ, xao xuyến bao trái tim (2 bài hát này do Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc
từ trước năm 1975 )

Động Hoa Vàng của ông dài 400 câu thơ lục bát, như một câu chuyện cổ
tích, khói sương bàng bạc kể về một nhà sư giũ áo đến chốn Thiên Thai:

Ta về giũ áo mây trôi

Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan

Rằng xưa có gã từ quan

Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

… Sư lên chót đỉnh rừng thiền

Trong tim chợt thắp một viền tà dương.

Nhà thơ bảo rằng, cảnh giới huyền mộng đầy sắc hoa vàng là hình ảnh
thời bé thơ theo cha lên đồi khai thác đá trắng, nơi ấy ngợp hoa dại màu
vàng, và khi làm thơ, ký ức bật ra. Động Hoa Vàng đậm tính Phật, đánh
dấu bước tiến của nhà thơ vào thi đàn cuối những năm 60 và làm nên danh:
Phạm Thiên Thư.

Năm 1971, Nhạc sĩ Phạm Duy khi ấy còn trẻ, đã chọn một số câu trong Động
hoa vàng phổ thành ca khúc “Đưa em tìm động hoa vàng”. Thế là một thi
sĩ - nhà sư nhiều nợ tình si với một nhạc sĩ nhiều đam mê muốn xen mình
vào cõi đạo cùng hoà quyện thơ - nhạc trên nền nhạc dập dìu, gieo vào
lòng người cái chênh vênh, xen lẫn những giọt nước mắt long lanh, thăm
thẳm tiếng khóc của người nghệ sĩ đầy kỷ niệm…

Nhớ xưa em chửa theo chồng

Mùa xuân may áo, áo hồng đào rơi

Mùa thu em mặc áo da trời

Sang đông lại khoác lên người áo hoa

Thôi thì thôi để mặc mây trôi

Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan

Thôi thì thôi chỉ là phù vân

Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi

Tình yêu của nhà sư trong thơ làm “con vạc bờ kinh” cũng phải ghẹo rằng:

...Hỏi con vạc đậu bờ kinh

Cớ sao lận đận cái hình không hư

Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư

Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ...


Và tuyệt phẩm Ngày xưa Hoàng Thị

Năm 14 tuổi, Phạm Thiên Thư theo cha mẹ di cư vào miền Nam để tránh nạn
CS. Ông theo học Tú tài ở trường Trung học Văn Lang và… để ý cô bạn
Hoàng Thị Ngọ (người gốc Hải Dương). Ông kể rằng, hồi ấy nhà Ngọ ở trên
đường Trần Quang Khải. Ngọ luôn đứng ở hàng nữ đầu tiên, mái tóc dài
buông lơi trên bờ vai mảnh dẻ và “cậu Thư” bao lần lặng lẽ ngắm nhìn.
Tan trường, cô Ngọ ôm cặp đi trước, “cậu Thư” lẽo đẽo theo sau dưới hàng
cây xiên xiên bóng chiều. Bước chân Ngọ lặng lẽ gieo vào lòng cậu cảm
xúc lạ lùng, khó tả.

Học xong Tú tài, Phạm Thiên Thư theo học trường Đaị học Vạn Hạnh, gửi
hồn trong lời kinh, tiếng kệ. Nhưng mỗi khi đi qua con đường cùng Ngọ
ngày trước, những cảm xúc lạ lùng trào dâng, để rồi một lần đắm chìm
trong cảm xúc ấy, bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị đã ra đời:

“Em tan trường về

Đường mưa nho nhỏ

Chim non giấu mỏ

Dưới cội hoa vàng…”.

... Anh trao vội vàng

Chùm hoa mới nở

Ép vào cuối vở

Muôn thuở còn vương...

Tình yêu trong thơ của ông kín đáo và bẽn lẽn, yêu mà chẳng dám cầm tay
vì sợ tan biến mất. Khi Ngày xưa Hoàng Thị được phổ nhạc đã làm bài thơ
càng bay bổng, thánh thiện và làm nên một hiện tượng ca nhạc ở miền Nam
những năm 70. Nhiều người tôn vinh đó là tuyệt tác, là bài hát cửa miệng
của bao người. Giới báo chí cũng phải vào cuộc để tìm xem Hoàng Thị Ngọ
là ai....
Nhưng với Phạm Thiên Thư thì đó là bản tình ca một mình nổi tiếng, là kỷ
niệm một mối tình thời trai trẻ ông viết sau khi đã vào cửa Phật quy y.

Mãi tới tháng 8/2005, người ta mới tìm được nguyên mẫu của bài thơ. Bà
Hoàng Thị Ngọ đang sống tại Mỹ. Bà bật mí cho giới báo chí rằng, ngày bà
còn đi học, có một chàng trai hay đi theo. Nhưng chàng làm thơ cho
mình, chứ không phải làm thơ theo đuổi Ngọ để rồi… vì không được mà bỏ
vào chùa đi tu!!! Có lẽ nhà thơ chỉ muốn ca tụng cái tên bình dị Hoàng
Thị Ngọ để nâng tứ thơ lên, chứ hai người… có gì đâu! Sau 10 năm ra
trường thì hai người cũng có dịp gặp lại nhau, khi ấy bài hát Ngày xưa
Hoàng Thị đã trở nên nổi tiếng. Nhưng cũng chỉ thế thôi.. ( và cho tới
nay thì chuyện naỳ vẫn còn trong nghi vấn?)

Nhà thơ từng kể rằng, sau này vợ ông, bà Trần Như Báu kỳ lạ thay, giống
Hoàng Thị Ngọ y đúc. Cái lạ nữa là Phạm Thiên Thư viết thơ tình rất hay,
nhưng chưa bao giờ đau khổ vì tình yêu, với ông tình yêu là cái gì lung
linh nhất, thật nhất. Có thể vì vậy mà trong đời, khi hai người đã đi
đến chỗ mến nhau thì ông trốn chạy, để rồi luyến tiếc và… làm thơ tình
rất hay. 10 năm xuất gia tu hành cũng chính là thời gian Phạm Thiên Thư
có nhiều tác phẩm hay từ kinh Phật, đạo thiền đến thi ca.

Bà Trần Như Báu cho biết: Nhà thơ bị tai biến mạch máu não từ 2005. Ông
tiếp tục tự chữa bệnh bằng phương pháp dưỡng sinh do ông nghĩ ra là
Phathata (pháp, thân, tâm). Thời gian chữa bệnh cũng là lúc ông nhận
thấy giới trẻ Việt Nam đang rơi vào tình trạng “thiếu” ngôn ngữ trong
giao tiếp thông thường và cả trong văn chương. Vì vậy ông viết Từ điển
cười hy vọng khuấy động một chút ngôn ngữ trong cuộc đời, một lối tư duy
ngôn ngữ của mình, và cười để đẩy những tâm bệnh trong mình.

Từ điển cười (Tiếu liệu pháp) là một kỷ lục trong nghiệp sáng tác của
Phạm Thiên Thư, với 5.000 ngữ nghĩa vui để “cười” và 24.000 bài tứ tuyệt
– tiếu liệu pháp. Ông định viết Từ điển cười từ A đến Z, nhưng mới dừng
lại ở A-B-C đã gần ngàn trang sách. Thơ trong sách viết theo thể thơ
thất ngôn tứ tuyệt, diễn đạt nôm na, dân dã. Những khái niệm trong đó dí
dỏm với nhiều kiểu cười.

Có người nói các kiểu cười của ông được lý giải theo lối tư duy hài hước
như những vần thơ trào phúng của văn học dân gian Việt Nam: Các khái
niệm “chửi” cũng đến con số 180, “chết” có 200 kiểu chết, “cười” có 200
kiểu cười, “chó” cũng đến hơn 60 loại và kiểu chó... với các loại chửi
làm người đọc tò mò: chửi quang minh chính đại, chửi... mẹ đĩ, chửi
ngọng nghịu, chửi ong óng... và một kiểu chửi của người Việt Nam là chửi
hoài niệm:

“Sư bố thằng kia lên gối bà

Nghe lời con đĩ đánh bà nha

Xưa mày bám cứng dai như đỉa

Biết thế thừa... để chó tha”.

Ông còn có sáng tác đồ sộ hơn, đó là cuốn Từ điển châm ngôn sẽ ra mắt bạn đọc một ngày gần đây.

Sau 200 năm Phạm Thiên Thư phá kỷ lục Truyện Kiều

Nhà thơ sắp tới tuổi lên lão (70 tuổi) đã có 20.000 câu thơ lục bát,
tổng cộng toàn bộ số sách được in có tới 126.000 câu thơ. Ông xuất hiện
trên thi trường bất ngờ khoảng năm 1969 với 3.254) câu thơ của Đoạn
Trường Vô Thanh - được xem như hậu Truyện Thúy Kiều của thi hào Nguyễn
Du.

Trích Từ điển cười của Phạm Thiên Thư

Cười Hồ Xuân Hương

Chị vượt đèo Ba, vượt với ai

Ba chân cùng tới - mệt lăn nhoài

Người đè bẹp chị ra tờ giấy

“Sư đáo nơi neo” - chị cũng hay.

Cười anh Hai Cù Nèo

Anh lộn hay sao - Dụng cái “nèo”!

Hòng ghìm chân cọp, trói chân heo

Hay cù mông khỉ, rung cây chín

Anh lộn hay sao - Dụng cái nèo?

Cười châm chọc

Kiểu cười của tay rành châm kíu

Phóng đúng yếu huyệt - môi hơi bĩu

Đối phương uất khí - tức lồng lên

Hoặc đổ kềnh ra - chuyển cấp cứu.

Mọi người đã biết rằng cụ Nguyễn Du đã được ghi vào sổ kỷ lục Việt Nam
với hơn 3.000 câu lục bát của Truyện Kiều. Và Phạm Thiên Thư đã phá kỷ
lục đó với Đoạn trường vô thanh gồm 3.254 câu lục bát (hơn 20 câu). Và
sau 200 năm Phạm Thiên Thư đã làm việc chưa từng có ở văn học Việt Nam
là mạnh dạn viết tiếp Truyện Kiều bằng chữ “Việt 100%”, cốt truyện theo
đánh giá của các nhà phê bình văn học nổi tiếng thì sức hấp dẫn không
thua Kim Vân Kiều.

Hoàng Thị Ngọ chỉ là một nhân vật thơ, thoáng qua như một nỗi nhớ để
nâng tứ thơ lên. “Tôi chưa từng mê mẩn một ai để đến mức đau khổ. Cái
hay nhất của đời tôi là đã đẩy được những khổ đau khi nó ngấp nghé đến
xa xa sau những bước chân mình...”

(Phạm Thiên Thư).

Ông còn làm một việc độc nhất ở Việt Nam nữa là chuyển thành thơ 7 bộ
kinh Phật giáo với một lối ngôn ngữ thuần Việt. Nội dung vẫn là kinh
Phật nhưng những địa danh trong kinh Phật đã được đổi thành những địa
danh của Việt Nam. Ông muốn người Việt thấm kinh Phật theo kiểu của
người Việt, để những người nông dân lam lũ bình dị cũng có thể có được
kinh thư trong chính mình...

Phạm Thiên Thư từng nói: “Tôi tu theo cách của mình, tu để sống cuộc đời của mình, nuôi dưỡng lối tư duy và trí tuệ của mình”.
Từ cõi Phật, ông đã thi hóa kinh Phật, sáng tác những thi phẩm hay và đẹp góp vào nền văn học Việt Nam.

Với số lượng thơ và nhiều công trình nghiên cứu, thi sĩ Phạm Thiên Thư
đã để lại cho đời một nét duyên trong một cõi lạ của thơ,
độc đáo nhưng rất Việt và tất cả những tác phẩm ấy, ông đều viết bằng tư duy vô thức.

Hà Dương

(Tư liệu và ảnh do Nhà thơ Phạm Thiên Thư cung cấp)


TIỂU SỬ:
Nhà thơ Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long, sinh ngày 1/1/1940. Quê cha ở xã Đình Phùng, Kiến Xương, Thái Bình.
Quê mẹ ở xã Trung Mầu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông sinh ra trong một gia đình Đông y nên khi vào Miền Nam thân mâũ ông vẫn
làm thuốc để giúp ngươì.
Bài thơ tình đầu tiên là Vết chim bay viết năm 24 tuổi (sau khi đi tu). Ông đã gửi đời vào chùa từ 1964, sau cuộc đổi đời 1975
thì cũng hoàn tục ( không còn đi tu nưã)
Ông có 30 đầu sách đã được in và tái bản từ trước năm 1975 cho tới nay...

Các nhạc bản nổi tiếng đã được phổ nhạc từ thơ cuả ông là:

- Ngày xưa Hoàng Thị,
- Đưa em tìm động hoa vàng,
- Gọi em là đóa hoa sầu,
- Em lễ chùa này,
- Huyền thoại trên một vùng biển,
- Loài chim bỏ xứ (nhạc Phạm Duy),
- Như cánh chim nay (nhạc Cung Tiến),
- Guốc tía,
- Đôi mắt thuyền độc mộc (nhạc Võ Tá Hân);
- Độc Huyền (nhạc Nguyễn Tuấn),
- Động Hoa vàng (nnạc Trần Quang Long)...
02-17-2011 07:59 PM
Find all posts by this user Quote this message in a reply
Post Reply 


Forum Jump:


User(s) browsing this thread: 1 Guest(s)